Hé mở tín ngưỡng lễ hội điện Hòn Chén: từ giai thoại đến đời sống của vùng đất Thần Kinh

5 2 Bình chọn
Article Rating

Mỗi năm có hai lễ vía quan trọng của đại Mẫu được tổ chức tại điện Huệ Nam (tức điện Hòn Chén): Lễ vía húy nhật Đức Vân Hương Thánh Mẫu vào ngày mùng ba tháng Ba và lễ thu tế của điện Huệ Nam vào hai ngày tốt trong thượng tuần tháng Bảy âm lịch, dân gian quen gọi là “Tháng Bảy vía Cha, tháng Ba vía Mẹ”.

Các lễ hội này thu hút hàng nghìn tín đồ và du khách thập phương đến chiêm bái và thực hiện các nghi lễ hầu đồng, tạo nên những nét đặc sắc của tín ngưỡng thờ Mẫu và chư vị ở Huế.

Lễ hội Điện Hòn Chén (hay còn gọi là Điện Huệ Nam) – Festival văn hóa dân gian

Huế không những được biết đến với các lăng tẩm cổ kính, các ngôi chùa hàng trăm năm, các ngôi làng để thờ … mà nó còn biết đến với Điện Hòn Chén nơi tâm linh luôn được mọi người tín ngưỡng và tôn quý nhất. Nhất là cứ vào độ tháng 3, tháng 7 Âm lịch, các tín đồ, người dân và khách du lịch lại nô nức kéo về đây để tham dự lễ hội Điện Huệ Nam.

Lễ hội Điện Huệ Nam là lễ hội nhằm suy tôn Thánh mẫu Thiên Y A Na – vị thần sáng tạo ra đất đai, cây cối, rừng gỗ quý, lúa, bắp… và dạy dân cách trồng trọt. Tại đây, các nghi lễ như: Lễ cung nghinh Thánh mẫu hồi loan về điện; Lễ phóng sinh – phóng đãng; Lễ cầu nguyện quốc thái dân an, với các làn điệu chầu văn xứ Huế… được diễn ra rất long trọng và hết sức sôi động trong tiếng nhạc của phường hát văn và phường bát âm.

Đẹp nhất là đám rước Thánh Mẫu, được cử hành trên những chiếc “bằng”. Trên mỗi bằng có bàn thờ Thánh Mẫu cùng với long kiệu, do các trinh nữ ăn mặc sặc sỡ khiêng, còn các bà, người mang bình hương, ống trầu, bình trà, hòm đựng đồ trang sức, kẻ mang cờ, biển, tàn, lọng, gối, quạt… Các thanh niên thì vác các đồ lễ bộ, bát bửu và các tự khí khác. Ðám rước đầy màu sắc rực rỡ, không khí trang nghiêm.

Nhờ những đặc sắc và ý nghĩa mang lại, Lễ hội Điện Huệ Nam còn được xem như một Festival về văn hóa dân gian trên sông Hương, thu hút hàng trăm chiếc thuyền ngược dòng Hương với đông đảo du khách đến từ nhiều tỉnh, thành trên cả nước tìm đến để cúng bái và cầu xin bình an, tiền tài, sức khỏe gia đình…

Đồng thời, Lễ hội truyền thống này đã đưa mọi người đến gần nhau hơn, góp phần làm cho văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.

Điện Hòn Chén nằm ở đâu?

Điện Hòn Chén tọa lạc trên núi Ngọc Trản, thuộc làng Ngọc Hồ, phường Hương Hồ, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Núi Ngọc Trản xưa có tên là Hương Uyển Sơn, sau mới đổi tên là Ngọc Trản (có nghĩa là chén ngọc), dân gian vẫn quen gọi là Hòn Chén vì nó có liên quan đến giai thoại về vua Minh Mạng đánh rơi chén ngọc.

Điện Hòn Chén, Huyền Trân Công Chúa, Hương Thọ, Hương Trà, Thừa Thiên Huế.

Cách đi điện Hòn Chén

Điện Hòn Chén cách trung tâm Tp. Huế khoảng 8km theo hướng Tây Nam. Từ trung tâm Tp. Huế, du khách có thể đến điện Hòn Chén bằng nhiều cách.

Du khách có thể đi thuyền trên sông Hương.

Di chuyển bằng đường bộ: du khách chạy xe theo hướng đường Bùi Thị Xuân rồi rẽ vào đường Huyền Trân Công Chúa. Sau đó, du khách chạy tới bến Than thì đi đò sang điện Hòn Chén.

Giá vé tham quan điện Hòn Chén

Lưu ý:

  • Đây là phí tham quan áp dụng thống nhất cả khách quốc tế và khách Việt Nam.
  • Miễn phí tham quan đối với các ngày lễ, tết (khi có thông báo bằng văn bản hoặc trên phương tiện truyền thông khác); đối với người khuyết tật đặc biệt nặng, trẻ em từ 6 tuổi trở xuống; học sinh các trường tiểu học, phổ thông cơ sở, phổ thông trung học thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức tham quan ngoại khóa hằng năm có đăng kí với Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, khách quốc tế, khách đặc biệt có ý kiến của Chủ tịch của Ủy ban nhân dân tỉnh.
  • Các trường hợp là thân nhân liệt sĩ, Anh hùng lực lưỡng vũ trang, Anh hùng lao động, thương  binh, người hưởng chính sách như thương binh, bệnh binh, người cao tuổi … sẽ được giảm 20%-50% phí tham quan.
  • Riêng với người dân xứ Huế, chỉ cần xuất trình chứng minh nhân dân, hộ khẩu tại quầy mua vé sẽ được giảm 50% giá vé khi vào tham quan bất kỳ di tích nào thuộc quần thể di tích Cố đô Huế.

Dành cho ai muốn tìm hiểu về Đạo Mẫu ở Huế: Tín ngưỡng thờ mẫu và chư vị

Nguồn gốc tín ngưỡng thờ mẫu và chư vị

Ðiện Hòn Chén là nơi ngày xưa người Chàm thờ nữ thần PoNagar, sau đó người Việt theo Thiên Tiên Thánh Giáo tiếp tục thờ bà với danh xưng là Thánh Mẫu Thiên Y A Na.

Theo người xưa truyền lại, Thiên Y A Na Thánh Mẫu, nguyên xưa là nữ thần người Chăm có tên gọi là Pô yang Inô Nagar, tức ” Thần Mẹ Xứ Sở” , người đã sáng tạo ra đất đai, cây cối, rùng quí, lúa, bắp … và còn dạy người dân cách trồng trọt.

Thuở ban đầu cư dân Việt Nam chỉ kế tục việc thờ cúng nữ thần một cách đơn giản. Hằng năm, đầu xuân dâng cúng, mở hội đua trải để cầu mưa, tại đoạn sông Ô Lâu thuộc địa phận làng Trạch Phổ (xã Phong Bình) trước đền.

Dần dần các chúa Nguyễn đã phong tặng sắc thần, chính thức hóa việc phụng thờ nữ thần. Đến đời vua Gia Long, việc ban sắc cho các làng thờ cúng diễn ra phổ biến. Sự tích nữ thần bắt đầu được nho sĩ đương thời biết rõ qua bài văn “Cổ tháp linh tích” của một vị quan viết năm 1801.

Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), ngay khi vừa lên ngôi, vua đã cho tôn tạo, đổi tên đền Ngọc Trản làm điện Huệ Nam, Đại Nam thực lục đã ghi: “ Vua khi còn ẩn nấu, thường chơi xem núi ấy, mỗi khi đến cầu khẩn phần nhiều có ứng nghiệm. Đến nay vua bảo rằng: Đền Ngọc Trản thật là núi Tiên nữ linh sơn sáng đẹp muôn đời, trông rõ là hình thế như con sư tử uống nước sông, quả là nơi chân cảnh thần tiên. Đền ấy thờ dược linh khí đắc nhất, cứu người độ đời, giáng cho phúc lộc hằng muôn, giúp dân giữ nước. Vậy cho đền ấy làm điện Huệ Nam, để biểu hiện ơn nước một phần trong muôn phần”.

Vua đã nói rõ như vậy, quan lại, quý tộc tha hồ xây am, lập điện riêng tại phủ đệ mình để thờ cúng Thánh Mẫu. Dân gian nghèo khổ, ốm đau, bệnh tật, chết chóc lại càng tin theo cầu cúng.

Tháng 3 năm Bính Tuất (1886), vua Đồng Khánh đã phán : “Nhà nước đương lúc vận hội khó khăn tất phải âm dương giúp đỡ mới có thể được việc nhanh chóng, nhưng điện ấy (tức điện Huệ Nam), từ trước chiếu lệ, thăng trật, cũng giống như bách thần, cho nên giữ nước giúp dân chưa được hiển ứng. Về ba vị thờ ở trên và sáu vị ở dưới về bên hữu, trẫm muốn tôn phong huy hiệu để mong sự linh diệu sau này.”

Kết quả, nhà vua đã phong thần hiệu cho chư thần thờ tại điện Huệ Nam như sau:

  • Ba vị ở trên:
    1) Hoàng Huệ Phổ Tế Linh Bảo Diệu Thông Mặc Tướng Trang Huy Ngọc Trản Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi Dự cBảo Trung Hưng thượng đẳng thần.
    2) Trứ Linh Chương Ứng Mục Uyên Hoằng Bác Uông Nhuận Thủy Long Thánh Phi Dực Bảo Trung Hưng trung đẳng thần
    3) Diệu Phu Quảng Độ Linh Chương Ý Nhã Anh Bình Sơn Trung Tiên Phi Dực Bảo Trung Hưng trung đẳng thần.
  • Sáu vị ở dưới:
    1) Tiên Cung Thông Minh Thượng Tướng Quân Dực Bảo Trung Hưng tôn thần.
    2) Tiên Cung Linh Minh Đại Tướng Quân Dực Bảo Trung Hưng tôn thần.
    3) Thủy Tinh Lực Dũng Tướng Quân Dực Bảo Trung Hưng tôn thần.
    4) Thủy Tinh Uy Dũng Tướng Quân Dực Bảo Trung Hưng tôn thần.
    5) Sơn Tinh Quả Dũng Tướng Quân Dực Bảo Trung Hưng tôn thần.
    6) Sơn Tinh Vũ Dũng Tướng Quân Dực Bảo Trung Hưng tôn thần.

Ngay trước bàn thờ sáu vị tôn thần này, vua Đồng Khánh đã cho làm biển, đích thân vua ngự bút đề: “Âm Dương huynh đệ thất thánh nghĩa hội”, ý xem mình là huynh đệ, xếp hàng thứ 7.

Năm 1888, mẹ ruột vua là Kiên Thái vương phi Bùi thị, em vua là Kiên huyện công Ưng Đậu và em gái là Như Cư đã cùng đồng môn chú tạo một đại hồng chung dâng cúng lên Thánh Mẫu. Lời minh chuông ghi như sau: “Thượng Thánh Mẫu Cung Ngọc Trản Sơn Huệ Nam Điện tam tòa tứ phủ chứng minh.

“Sơ nguyện: Đế vị diên niên vĩnh truyền bách thế, nội an, ngoại trị, quốc sự tảo thành.

“Tái nguyện: Âm phò Thiên Thành cuộc vĩnh bảo chung linh”. Cơ ngơi điện Huệ Nam tại núi Ngọc Trản (dân gian quen gọi là điện Hòn Chén) vào đời vua Đồng Khánh đã bao gồm quy mô hoàn chỉnh: Giữa là tòa thánh điện nóc cổ lầu, thờ hai tầng: Tầng trên thờ các thần hiệu nêu trên, với đủ nghi trượng cờ quạt, tàng lọng. Tầng dưới, ở giữa thiết án hội đồng, đằng sau là cửu trùng đài cao chín bậc, hai bên là kiệu, ngai, võng song loan.

Hai gian tả hữu tùng tự thiết tượng thờ các vị triều quận, triều cô. Bên tả chánh điện là miếu thờ Ngũ hành Tiên nương. Bên hữu là nhà trai để chuẩn bị cỗ cúng. Trước sân có hai ngôi đình bát giác và một am ở chính giữa, đều thiết trí án thờ. Ở sườn núi phía nam, tức phía hữu của điện còn xây cất hai ngôi miếu lớn.

Một thờ Quan Thánh đế quân và bộ hạ, một thờ bài vị nhân thần họ Lê vớt được ven bờ.

Dưới chân núi, sát bờ nước là miếu thờ Thủy Long tôn thần

Việc hành lễ của “con nhang đệ tử”

Trước khi thành lập Tổng hội Thiên Tiên Thánh giáo vào năm 1965 ở Huế và gần đây, mỗi am miếu thuộc tín ngưỡng thờ Mẫu và chư vị này tự túc sinh hoạt trong một đơn vị “phổ” với nhau, bao gồm “con nhang đệ tử” của từng phổ một, tập hợp chung quanh một vị chủ (thủ) am. Người chủ am, có thể là nam hay nữ, giữ trách nhiệm phụng thờ am, miếu hay điện mẫu của mình. Hằng tháng, cứ ngày 14, rằm, ba mươi, mồng một, tín đồ đệ tử tùy tâm lui tới lễ bái.

Mỗi phổ có từ vài mươi đến cả trăm con nhang đệ tử, hầu hết là những người có “chân lính”, tức là những người bị ốm đau không rõ căn bệnh, cầu cúng ở am miếu mới lành, được xem như là hợp căn, hợp mạng. Mẫu và chư vị bắt làm “lính”, hầu đồng ở am, miếu. Có thể hằng tháng trong năm, họ không nhất thiết phải tới am chính, nếu không đau ốm, rủi ro gì. Nhưng vào dịp hai lễ “Khai bàn”, khoảng trung tuần tháng Hai âm lịch, và lễ “Tạ bàn” cuối năm khoảng vào hạ tuần tháng Chạp, tất cả con nhang đệ tử đều phải đến am hành lễ, dâng cúng, lên đồng đủ chín giá chủ yếu.

Đó là các giá đồng “Ngũ vị Thánh Bà” và “Lục vị Tôn Ông”. Trừ hai giá Tôn Ông đệ nhất và đệ lục khỏi phải hầu lên, vì tương truyền hai vị này đã đi tu, gọi là giá bỗng, đệ tử còn hầu chín giá chính.

Ngoài ra, còn phải hầu một vài giá khác, phù hợp với căn mạng của mình trong 12 giá phụ sau đây:

– Giá cậu đệ nhị ngoại càn.

– Giá cậu đệ tam ngoại càn.

– Giá cậu đệ nhị khuôn viên.

– Giá cậu đệ tam khuôn viên.

– Giá cô Năm ngoại càn, cô Ba ngoại cảnh, cô Ba thủy phủ, cô Ba chín suối, cô Cả Đèo Ngang.

– Giá cô Chín thượng ngàn, ông Chín thượng ngàn, ông Bảy thượng ngàn.

Các cô và các cậu này là hồn thiêng của các đồng nam, đồng nữ (chưa lập gia đình, còn đồng trinh), chết oan khuất đã hiển linh, được theo hầu Tứ phủ công đồng, đã được thờ phụng phổ biến và mặc nhiên thừa nhận trong tín ngưỡng thờ cúng của các am, miếu, điện Mẫu ở Huế.

Lên đồng là sự hóa thân vào một vai thần, thánh, hay ma quỷ linh thiêng trong hành lễ, tức là thần, thánh, ma quỷ đã ốp đồng vào người ngồi đồng, làm cho

người đó phục trang như quỷ thần, mọi cử chỉ, hành vi, vũ đạo, ngôn ngữ y như quỷ thần, được người trần lễ bái, dâng rượu, dâng trầu…. Ngược lại vai đồng sẽ hoan hỷ ban phát lộc cho người trần, phán bảo chỉ dạy cho đệ tử.

Trong nghi lễ lên đồng, trước hết phải có lễ cúng với đầy đủ vật phẩm, văn sớ tuyên đọc, có cung văn hát hầu văn và đệm đàn, sênh, phách…. Lời hát hầu văn, tiếng nhạc phụ thuộc theo vũ đạo và cử chỉ, động thái của vai đồng đang lên. Vai đồng múa quạt thì cung văn hát bài múa quạt, vai đồng múa kiếm thì cung văn chuyển qua bài múa kiếm, vai đồng phi ngựa thì cung văn hát bài tẩu mã, vai đồng nhận rượu cúng thì cung văn hát bài dâng rượu…

Các “con nhang đệ tử” quan niệm rằng nếu mỗi năm vào ngày “Khai bàn” hay “Tạ bàn” mà không đến am, điện hành lễ và lên giá đồng thì sẽ đau ốm, rủi ro.

Ngoài hai dịp đó, quanh năm họ cũng làm ăn mưu sinh như mọi người. Có khác chăng là họ phải kiêng cữ một số thịt cá đặc biệt, như thịt chó, thịt trâu, cá gáy, cá lóc…. Một số người có điều kiện có thể thiết lập một am cô, hay am cậu ngoài sân nhà mình để phụng thờ hương khói mỗi khi sóc vọng.

Thỉnh thoảng, nếu trong gia đình có rủi ro gì, họ có thể tới am, điện chính của phổ để cầu cúng, và có thể lên các giá đồng bà cô, ông quận thân ruột của mình, hoặc các giá đồng hợp căn, hợp mạng để xin phán bảo.

Mỗi năm, có hai lễ vía quan trọng tổ chức tại điện Hòn Chén: lễ vía húy nhật đức Vân Hương Thánh Mẫu (dân gian gọi là vía Mẹ) vào ngày 3 tháng Ba, và ngày lễ thu tế điện Huệ Nam vào hai ngày tốt trong thượng tuần tháng Bảy âm lịch, con nhang đệ tử còn có bổn phận đến nơi chiêm bái. Thỏa mãn những nghĩa vụ tế lễ đó, họ tự cho là thanh thản trong lòng, để lo làm ăn mưu sinh.

Người chủ am cũng thế, ngoài những ngày sóc vọng, ngày vía lớn, tổ chức dâng lễ, lên đồng, và hai ngày Khai bàn, Tạ bàn bận rộn cầu cúng, thường nhật họ vẫn lo làm ăn mưu sinh, và để có điều kiện vật chất lo phụng thờ, hương khói cúng kiến.

Những nét đặc sắc của tín ngưỡng thờ Mẫu và chư vị ở Huế

Tín ngưỡng thờ Mẫu và chư vị này đến năm 1965 được quy tụ thống nhất trong một Tổng hội Thiên Tiên Thánh giáo Trung Nguyên Trung Phần, đặt trụ sở tại 252 đường Chi Lăng, Huế. Trụ sở này được xem như một nơi thờ vọng Thánh

Mẫu và chư vị, và nơi làm việc của Ban trị sự Tổng hội. Cách đặt tên Thiên Tiên Thánh giáo được giải thích là: Thiên là huyện Thiên Bản, Tiên là làng Tiên Hương, tức là thôn Vân Cát, làng An Thái huyện Thiên Bản (nay là Vụ Bản) tỉnh Nam Định, là nơi giáng trần lần thứ hai của Liễu Hạnh công chúa. Hai chữ Thánh giáo thể hiện một nguyện vọng của Tổng hội xin thừa nhận tín ngưỡng này như một tôn giáo thiêng liêng.

Trong giới nghiên cứu, tín ngưỡng này còn gọi là tín ngưỡng Tứ phủ, vì tín ngưỡng này quan niệm có thánh thần ở bốn cõi: Thượng thiên, Trung thiên, Thượng ngàn, Thủy phủ, tức gồm hai cõi trời, cõi núi rừng và cõi sông biển. Tiên, thánh, thần bốn cõi đó đều liên kết nhau chi phối cõi người. Mỗi cõi đều có quyền lực như một triều đình: có đế vương, có thánh mẫu, có chư tiên, có các hoàng tử, công chúa, có khâm sai, giám sát, các vị quận chầu, cô chầu (triều quận, triều cô), có quan văn võ, như ngũ lôi, linh quan, ngũ hổ đại tướng, và âm binh bộ hạ.

Danh hiệu Tứ phủ công đồng này chưa được minh giải đầy đủ. Nó không rõ ràng như danh hiệu Tam phủ công đồng ở tín ngưỡng thờ Mẫu của dân gian miền Bắc: Thiên phủ, Địa phủ và Thủy phủ, tức cõi trời, cõi đất và cõi sông biển.

Ở Huế, tín ngưỡng thờ Mẫu đã phân lập khái niệm Thiên phủ ra hai cõi: Thượng thiên và Trung thiên. Khái niệm Địa phủ lại được chuyển hóa thành khái niệm Thượng ngàn. Trung thiên được hiểu là cõi trời trung gian giữa cõi trời Thượng thiên và thế gian.

Xét theo văn sớ cầu cúng của tín ngưỡng Tứ phủ công đồng ở Huế thì mỗi cõi đều có một Thánh Mẫu cai quản:

– Thượng thiên có Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi Thánh Mẫu.

– Thượng ngàn có Quản Cai Sơn Nhạc Cửu Châu Lê Mại Đại Vương.

– Trung thiên có Tây Cung Vương Mẫu bổn mạng chúa tiên.

– Thủy phủ có Thủy Phủ Long Cung Thánh Mẫu.

Mỗi cõi lại tổ chức như một triều đình phong kiến. Vẫn theo văn sớ cầu cúng, hệ thống thần điện mỗi cõi được phân lập như sau:

1) Thượng thiên:

– Thiên Y Thánh Mẫu.

– Liễu Hạnh Thánh Mẫu.

– Bạch Hoa công chúa.

– Nhị vị Trạng nguyên tôn ông.

– Ngũ vị hoàng tử.

– Ngũ vị Khâm sai, hành sai tiên cô…

2) Trung thiên:

– Tây Cung Vương Mẫu bổn mạng chúa tiên.

– Ngũ vị thánh bà.

– Hỏa phong thánh bà.

– Chư vị đức bà.

– Thiên tào bổn mạng…

3) Thượng ngàn:

– Thượng ngàn Thánh Mẫu Lê Mại Đại Vương.

– Thượng ngàn chư vị công tử.

– Thập nhị thiên tướng.

– Ngũ hổ mãnh tướng.

– Ông Chín thượng ngàn.

– Cô Chín thượng ngàn.

– Ông Bảy thượng ngàn.

– Ngoại cảnh càn khôn, Ngũ hành, Lục động, Bạch thố, Kim tinh, Mộc tinh

thánh nữ…

4) Thủy phủ:

– Thủy phủ chúa Động Đình Bắc Hải Đế Quân.

– Thủy phủ Long Cung Thánh Mẫu.

– Đệ nhất cung Xích Lân tiên nữ.

– Đệ nhị cung Thủy Tinh thánh nữ.

– Đệ tam cung Xích Lân tiên nữ, Bạch Ngọc hồ trung Thủy Tinh công chúa (cô Ba Thủy phủ).

– Đệ tứ đức triều Khâm sai thánh nữ.

– Thủy giới Long Cung chư vị thánh bà.

– Thập vị thủy tể tôn ông (cũng gọi 10 ông hoàng).

– Thủy phủ ngũ vị Xích Lân hoàng tử.

– Tam vị Phụ quốc Trạng nguyên tôn ông.

– Ngũ phương duyên lộ Hà Bá thủy quan.

– Tào liêu, phán thuộc, sĩ tốt, lại binh…

Và cõi nào cũng có Thập nhị triều quận, Thập nhị triều cô (con số 12 này chỉ là một con số nhiều, chứ không có nghĩa cụ thể là 12), cùng các quan văn võ thần liêu, bao gồm khâm sai, giám sát, và bộ hạ theo hầu.

Trong số bốn cõi này, có hai cõi chi phối trực tiếp vận mạng con người: cõi Trung thiên nắm giữ bổn mạng, quy định thọ, yểu, cõi thủy phủ lại chi phối “căn”của con người, đặc biệt là nữ giới (mệnh tại thiên tào, căn vu thủy giới).

Do đó, Thánh Mẫu của hai cõi này, thường được dân gian thờ cúng trực tiếp tại nhà mình: Tây Cung Vương Mẫu, thờ thường xuyên tại trang bà, Thủy phủ Long Cung Thánh Mẫu (cùng các thủy thần khác) được dâng cúng trong lễ thành định kỳ 3 năm, 5 năm của phụ nữ.

Theo truyền thuyết Chăm và Việt, Thiên Y A Na Thánh Mẫu và Liễu Hạnh Thánh Mẫu vốn từ Thượng thiên đã thác sinh vào cõi trần gian. Thiên Y A Na Thánh Mẫu thác sinh làm cô gái da ngâm đen ở vùng Đại An,

Khánh Hòa sau này, vào thời thượng cổ Chăm, làm con nuôi ông bà lão trồng dưa, hóa thân sang biển Bắc làm vợ một hoàng tử Trung Hoa, rồi hóa thân trở lại quê nhà, hiển thánh giúp dân xong trở về thượng giới. Liễu Hạnh Thánh Mẫu, theo thần tích thì xuống trần bốn lượt vào thời trung đại ở Việt Nam.

– Lần thứ nhất đầu thai vào nhà họ Phạm, sinh năm 1434, ở làng Trần Xá, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam, không lấy chồng, mất khi 40 tuổi.

– Lần thứ hai, năm 1557, đầu thai vào nhà họ Lê ở làng Vân Cát, huyện Vụ Bản, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam, được đặt tên là Giáng Tiên, 18 tuổi gả làm vợ Trần Đào lang, sinh được 1 trai 1 gái. Năm 21 tuổi không bệnh mà mất vào ngày mồng 3 tháng Ba âm lịch (1577).

– Lần thứ ba, cách ba năm sau ứng hiện xuống trần thăm lại chồng con, và đi vân du khắp nơi. 30 năm sau (1609) trở về làng Sóc Sơn ở Nghệ An, gặp lại hậu thân của Trần Đào lang là Mai Sinh, nối lại duyên xưa, sinh được 1 trai rồi trở về trời năm 1610.

– Lần thứ tư, sau thời gian công cán ở cung trời tương ứng 5 năm trần thế, năm 1615 lại xuống trần, đem theo hai công nương là Quế Hoa và Thụy Hoa, ứng hiện xuống vùng Phố Cát, huyện Thạch Thành, Thanh Hóa, hiển linh tác oai tác phúc. Triều đình Lê Trịnh đem quân Vũ lâm tiễu trừ, nhưng gặp tai họa. Triều đình phải tái lập đền thờ, ban sắc phong gia tặng là “Chế Thắng Hòa Diệu Đại Vương”.

“Bởi vì em dắt anh lên những ngôi đền cổ
Chén ngọc giờ chìm dưới đáy sông sâu
Những lăng tẩm như hoàng hôn chống lại ngày quên lãng
Mặt trời vàng và mắt em nâu”

(Tạm Biệt – Thu Bồn)

(Tham khảo kiến thức từ Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển ; Huế Trully Life)

Hình ảnh: Kà-rem

ĐỊA ĐIỂM DU LỊCH, KINH NGHIỆM DU LỊCH, Thừa Thiên Huế, Việt Nam
5 2 Bình chọn
Article Rating
Đăng ký
Nhận thông báo cho
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận